Tổng quan hút mỡ bụng toàn bộ
Hút mỡ bụng toàn bộ là một can thiệp ngoại khoa nhằm lấy bỏ mỡ thừa khu trú tại một số vùng trên cơ thể nhờ hệ thống ống hút để làm thon gọn, tạo đường cong cơ thể mong muốn.
Với sự phát triển những thiết bị và kỹ thuật hút mỡ như hiện nay, có thể nói vùng nào trên cơ thể cũng có thể hút mỡ được. Vùng mặt và cổ, cánh tay, ngực, lưng bụng, hông, mông, đùi, gối, bắp chân, mắt cá chân… Ngay cả tuyến vú nữ hóa ở nam (gynecomastia) cùng có thể điều trị bằng hút mỡ.
Hút mỡ giúp mang lại tạo hình đẹp
Kết quả khách hàng hút mỡ bụng tại bệnh viện JW
Sự khác biệt rõ rệt của khách hàng sau khi hút mỡ bụng tại JW
Chọn lựa bệnh nhân là một tiêu chí để đạt được kết quả tạo hình đẹp. Không phải tất cả ai có yêu cầu đều hút mỡ được, phải tư vấn kỹ lưỡng xem mục đích của bệnh nhân là gì, bệnh nhân mong muốn được thay đổi hình dáng như thế nào, bệnh nhân hy vọng gì sau khi hút mỡ. Bác sĩ sẽ giải thích điều gì đạt được và không thể được khi phẫu thuật hút mỡ.
Có những bệnh nhân cần phẫu thuật căng da bụng hay hút mỡ phối hợp với phẫu thuật căng da bụng. Người bác sĩ có kinh nghiệm cần thận trọng với những bệnh nhân không phù hợp với phẫu thuật hút mỡ như sau:
– Những biến dạng da có trước
– Bệnh nhân có nhiều vết rạn da, da chùng nhão nhiều…..
Phẫu thuật hút mỡ không phải để điều trị bệnh béo phì.
Chọn lựa phương pháp vô cảm tùy thuộc vào phẫu thuật viên, ý muốn của bệnh nhân, lượng mỡ dự định hút, có hay không phẫu thuật khác kết hợp với hút mỡ.
- Gây tê tại chỗ hay gây tê vùng thích hợp khi lượng mỡ cần hút ít.
- Nếu hút mỡ lượng nhiều cần gây mê và bệnh nhân cần nằm viện.
Bác sĩ gây mê cần chú ý rằng 70% lượng nước truyền làm ướt mô mỡ được hấp thu để tính toán lượng dịch truyền trong khi phẫu thuật.
Các biến chứng sớm sau hút mỡ bụng toàn bộ
Biến chứng gần sau khi hút mỡ bụng toàn bộ
– Tai biến của gây mê, gây tê.
– Tai biến phẫu thuật :
- Tai biến tắc mạch :
- Viêm tắc tĩnh mạch hoặc tắc mạch phổi là biến chứng nặng, có thể đe dọa tính mạng. Nguy cơ này càng cao khi bệnh nhân có tiền sử từng mắc bệnh này;
- Tắc mạch mỡ gây ra do sự di chuyển của mỡ tự do đi vào trong máu, với biểu hiện rất đau ở đầu mút chân tay nếu chúng gây tắc mạch và hoại tử.
Đề phòng
Cho bệnh nhân vận động sớm ngay sau mổ
Cân nhắc sử dụng thuốc chống đông sau mổ dạng tiêm hay dạng uống.
- Chảy máu: chảy ra ngoài hoặc chảy bên trong gây máu tụ.
Đề phòng:
Ngừng các thuốc aspirine, thuốc chống viêm giảm đau và thuốc chống đông đường uống ít nhất 10 ngày trước mổ;
Băng ép tốt sau phẫu thuật.
- Nhiễm trùng: tai biến này ít gặp, nhưng đôi khi lại rất nghiêm trọng, để lại di chứng nặng nề.
Đề phòng:
Đảm bảo nguyên tắc vô trùng khi tiến hành thủ thuật, dùng kháng sinh dự phòng.
- Hoại tử da: Rất ít gặp.
Biến chứng xa:
- Thay đổi cảm giác : có thể gặp tê, giảm cảm giác vùng mổ, rối loạn này thường sẽ hồi phục sau nhiều tuần hoặc nhiều tháng;
- Da sần vỏ cam: Do phẫu thuật viên hút không đều tay, để lại lớp mỡ chỗ dày chỗ mỏng, hoặc do hút mỡ quá sát da;
- Hút mỡ không đủ, hoặc không cân đối;
- Hút mỡ quá nhiều, để lại những vùng lõm, bề mặt không đều;
- Da không co lại đồng đều sau mổ, gây ra những nếp gấp, đôi khi cần phẫu thuật để sửa lại, đồng nghĩa với việc có thêm sẹo.
Quy trình chăm sóc sau mổ
Vết rạch da để đưa ống hút vào cần khâu lại, nếu vết rạch da nhỏ dưới 3mm thì không cần khâu.
Băng ép vùng thực hiện
Dịch làm ướt có thể thoát qua vết rạch da trong vòng 24-36 giờ qua vết rạch da
Bệnh nhân có thể tắm sau 1-2 ngày và thay băng ép sạch sẽ.
Khi lượng dịch hút ra trên 2000ml cần đặt dẫn lưu. Rút ống dẫn lưu khi lượng dịch thoát dưới 30ml/ngày
Băng ép hay quấn nịt ( compression garment) phải mang ngày đêm trong 4 -6 tuần khi hút mỡ đùi trong và ngoài
Tái khám theo lịch như sau:
- Cắt chỉ sau 5 ngày
- Theo dõi vết bầm da sau 2 tuần
- Theo dõi hiện tượng phù nề sau 6 tuần
- Kết quả đầu tiên sau 3 tháng
- Kết quả đạt được cuối cùng sau 6 tháng
Lưu ý:
- Cần tư vấn kỹ hiện tượng sưng hay phù nề có thể kéo dài lâu, 80% sẽ giảm sau 6 tuần và mất hẳn sau 4-6 thánga
- Phải nằm viện ít nhất 1 ngày sau phẫu thuật để theo dõi
- Vận động bình thường nhưng nhẹ nhàng ngay trong tuần đầu để giảm nguy phù nề và tăng dần. Cuối tuần đầu có thể sinh hoạt bình thường, đi bộ ngoài trời hay đi bộ trên máy tập.
- Sau 3 – 4 tuần, khi phù nề và vết bầm giảm nhiều, có thể không cần băng ép.